Loading...
Chủ Nhật, 13/4/2025

Nguyễn An Ninh: Cuộc đời, tiểu sử và những đóng góp

Nguyễn An Ninh (1900 – 1943) là một trong những chí sĩ yêu nước tiêu biểu trong lịch sử hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ 20. Ông không chỉ là nhà cách mạng, mà còn là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo có tư tưởng tiến bộ, góp phần quan trọng vào phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp.

Nguyễn An Ninh là ai?

Nguyễn An Ninh sinh ngày 15 tháng 9 năm 1900 tại xã Long Thượng, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long An), trong một gia đình trí thức Nho học, yêu nước. Cha ông là Nguyễn An Khương, người làng Quán Tre, huyện Hóc Môn (nay thuộc TP. Hồ Chí Minh) – một nhà văn Hán học uyên thâm, có tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Chú ruột của ông, Nguyễn An Cư, cũng là một nhà văn và Đông y sĩ nổi tiếng thời bấy giờ. Gia đình ông có nguồn gốc từ Hưng Yên, tổ tiên thuộc họ Đoàn, từng lưu lạc vào Bình Định để tránh sự truy sát của chúa Trịnh, rồi đổi sang họ Nguyễn. Thân mẫu ông là bà Trương Thị Ngự, xuất thân từ một gia đình giàu có, danh giá ở Chợ Lớn, sau được truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng.

Nguyễn An Ninh là người có tư duy độc lập, dám thách thức những tư tưởng cũ lỗi thời và lên tiếng mạnh mẽ chống lại chính quyền thực dân. Ông đã để lại dấu ấn lớn trong lòng người dân qua những bài viết sâu sắc, truyền cảm hứng yêu nước mãnh liệt. Không chỉ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, ông còn tích cực tham gia các phong trào yêu nước, cổ vũ thanh niên Việt Nam học hỏi tri thức phương Tây để cứu nước.

> Thân mời bạn đọc thêm Nguyễn An Ninh qua hồi ức của những người thân tại Thư viện số Nguyễn An Ninh

tieu-su-nguyen-an-ninh-3

Sự nghiệp của Nguyễn An Ninh

Học vấn

Con đường học vấn của Nguyễn An Ninh thể hiện trí tuệ vượt trội và tinh thần tự học đáng kinh ngạc. Ngay từ nhỏ, ông đã theo học tại các trường danh tiếng như Taberd, Collège Mỹ Tho, và Trường Chasseloup Laubat (nay là THPT Lê Quý Đôn, TP. Hồ Chí Minh). Năm 1915, mới 15 tuổi, ông đã được nhận làm biên tập viên cho tờ Courrier Saigonnais – một điều hiếm thấy đối với một thiếu niên đương thời.

Sau khi tốt nghiệp trung học loại ưu, ông ra Hà Nội học tại Trường Cao đẳng Y Dược Đông Dương, và được miễn bằng Tú Tài. Tuy nhiên, chỉ sau nửa năm, Nguyễn An Ninh đã quyết định chuyển sang học luật tại Trường Cao đẳng Pháp chính, vì nhận thấy luật học mới thật sự là con đường để đấu tranh vì công lý và tự do cho dân tộc.

Năm 1918, Nguyễn An Ninh sang Pháp và theo học tại Đại học Sorbonne – một trong những ngôi trường danh tiếng nhất châu Âu. Chỉ trong một năm, ông đã hoàn tất chương trình Cử nhân Luật vốn kéo dài bốn năm, và tốt nghiệp hạng xuất sắc, gây chấn động trong giới học thuật Pháp.

Không chỉ giỏi luật, ông còn đam mê nghiên cứu triết học Ánh sáng (Voltaire, Rousseau, Montesquieu, Diderot), chủ nghĩa Gandhi, Phật giáo, và đặc biệt là triết học Marx - Lenin. Trong thời gian học tập, ông đã đặt chân đến nhiều nước châu Âu như Đức, Ý, Thụy Sĩ, Áo, Hà Lan và Bỉ, mở rộng tầm nhìn về văn hóa, khoa học và chính trị.

Tuy có dự định học lên Tiến sĩ nhưng Nguyễn An Ninh đã lựa chọn quay về nước để cống hiến cho phong trào cách mạng. Quyết định đó đã đặt nền móng cho sự nghiệp đấu tranh không ngừng nghỉ của ông vì độc lập dân tộc và tự do tư tưởng.

> Mời bạn đọc thêm Nguyễn An Ninh những lần sang Pháp

Hoạt động chính trị

Những hoạt động chính trị của Nguyễn An Ninh là minh chứng sống động cho tinh thần bất khuất, trí tuệ và lòng yêu nước cháy bỏng.

Tham gia nhóm Ngũ Long tại Pháp

Khi còn du học tại Pháp, Nguyễn An Ninh đã nhanh chóng kết nối với các nhà yêu nước nổi tiếng như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc. Nhóm này được kiều bào gọi là “Ngũ Long”, đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá tư tưởng cách mạng, đấu tranh cho quyền lợi dân tộc tại Pháp. Ông còn là cộng sự đắc lực của Nguyễn Ái Quốc trong việc sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa và viết bài cho tờ báo Le Paria (Người cùng khổ).

tieu-su-nguyen-an-ninh-2

Nguyễn An Ninh (bên trái) và Nguyễn Thế Truyền (bên phải) chụp ảnh cùng nhau tại Pháp năm 1927. (Nguồn: Sưu tầm)

Diễn thuyết và thức tỉnh dân trí trong nước

Trở về Việt Nam năm 1923, Nguyễn An Ninh đã gây tiếng vang lớn với các bài diễn thuyết như "Nền văn hóa Việt Nam" và "Lý tưởng thanh niên An Nam", kêu gọi thanh niên dấn thân, nâng cao dân trí và thoát khỏi ách nô lệ văn hóa – chính trị. Ông thẳng thắn phê phán tư tưởng bảo thủ Nho giáo lạc hậu và chỉ trích sâu sắc chính sách "khai hóa" trá hình của thực dân Pháp.

Xuất bản báo La Cloche Fêlée (Tiếng chuông rè)

Không được phép diễn thuyết công khai, Nguyễn An Ninh chuyển sang đấu tranh bằng báo chí. Ông cho ra đời báo La Cloche Fêlée – tờ báo tiếng Pháp đầu tiên ở Việt Nam do người Việt làm chủ biên, nhằm vạch trần chính sách bóc lột của thực dân Pháp, truyền bá tư tưởng dân chủ, tự do. Tờ báo đã tạo nên một cơn chấn động trong giới trí thức và thanh niên Nam Kỳ, khiến thực dân Pháp phải theo dõi, đàn áp gắt gao.

Những lần bị bắt và ngồi tù

Với tinh thần chiến đấu không khoan nhượng, Nguyễn An Ninh nhiều lần bị bắt và ngồi tù vì các hoạt động chính trị:

  • Lần 1 (1926): Sau buổi diễn thuyết tại Xóm Lách, ông bị bắt và kết án 18 tháng tù.
  • Lần 2 (1928): Bị kết án 3 năm tù trong vụ “Hội kín Nguyễn An Ninh”.
  • Lần 3 (1936): Bị bắt vì tội "phá rối trị an", tuyệt thực để phản đối.
  • Lần 4 (1937): Bị giam đến năm 1939, tiếp tục tham gia các phong trào cách mạng sau khi ra tù.
  • Lần 5 (1939): Bị bắt và lưu đày ra Côn Đảo, nơi ông hy sinh trong ngục tù thực dân ngày 14/8/1943.

Đấu tranh không mệt mỏi cho tự do – dân chủ

Nguyễn An Ninh không ngừng hoạt động trong các tổ chức yêu nước như Thanh niên Cao vọng Đảng, phối hợp với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, viết báo cho các tờ Tranh đấu, Trung lập, Dân chúng và tham gia tranh cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Ông cũng để lại dấu ấn trong việc truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin, tuyên truyền về tự do, dân chủ, chống áp bức bóc lột thông qua các bài viết và tác phẩm chính trị sâu sắc như "La France en Indochine".

tieu-su-nguyen-an-ninh-4

Nguyễn An Ninh (thứ hai từ phải qua) cùng bạn học Luật ở Pháp (1919-1920) (Nguồn: Sưu tầm)

Các lần diễn thuyết

Bằng tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ và lòng yêu nước sâu sắc, ông đã dùng diễn đàn để thức tỉnh tinh thần dân tộc, kêu gọi giới trẻ dấn thân vì một Việt Nam độc lập và văn minh.

Diễn thuyết lần đầu – “Nền Văn hóa Việt Nam” (Une culture pour les Annamites)

Đêm ngày 25 tháng 1 năm 1923, tại Hội Khuyến học Nam Kỳ (số 34 đường Aviateur Garros, nay là đường Thủ Khoa Huân), Nguyễn An Ninh thực hiện bài diễn thuyết đầu tiên với đề tài “Une culture pour les Annamites”, thường được dịch là “Chung đúc học thức cho dân An Nam”.

Ông kêu gọi người Việt nên noi theo cái học thức Pháp, để “mở mang trí dân, rộng tư tưởng của dân, làm cho dòng giống tráng kiện, mau thoát cái ách nô lệ”. Ông mạnh mẽ cảnh báo:

"Bằng cứ theo nẻo hoạn đồ, lấy việc làm quan là mục đích của việc học thì hỡi ơi! Sau này dòng giống sẽ yếu ớt, ắt có ngày kia rút vô rừng mà ở!"

Diễn thuyết lần thứ hai – “Lý tưởng thanh niên An Nam” (L’idéal de la Jeunesse Annamite)

Vào đêm 15 tháng 10 năm 1923, ông tiếp tục diễn thuyết đề tài “L’ideál de la Jeunesse Annamite” bằng tiếng Pháp, thường được dịch là “Cao vọng của thanh niên An Nam”. Trong bài phát biểu này, Nguyễn An Ninh nhấn mạnh rằng nếu dân tộc chỉ đi theo văn hóa ngoại bang, thì sẽ không bao giờ có độc lập thật sự:

“Dân tộc nào để cho một nền văn hóa ngoại bang ngự trị thì không thể có độc lập thực sự. Văn hóa là tâm hồn của dân tộc.”

“Một dân tộc muốn sống, muốn độc lập, muốn rạng danh trong nhân loại, cần phải có một nền văn hoá riêng của mình.”

Ông lên án mạnh mẽ chủ nghĩa thực dân và phản bác vai trò “khai hóa” của người Pháp tại Đông Dương:

“Cứ suy tôn Khổng Tử, khó cho ta tiến bước được.”

“Tự do không phải là một vật gì mà ta có thể chuyền tay, có thể cho hay bán. Ai cũng có thể tự do được.”

Đồng thời, ông kêu gọi thanh niên hãy tự định hướng cuộc đời mình:

“Thanh niên ngày nay, không ai cấm chúng ta phác họa ước mơ và cao vọng.”

Và kết thúc bằng lời hiệu triệu mạnh mẽ:

“Hãy tôn sùng những ai đã dùng tài năng hay thiên phú của mình mà tự nâng vị trí của dân tộc ta trên thế giới và những ai đã đóng góp vào việc cải thiện điều kiện sống cho dân tộc chúng ta.”

Phản ứng của chính quyền thực dân

Hai bài diễn thuyết gây tiếng vang lớn trong giới trí thức và thanh niên Sài Gòn, buộc Thống đốc Nam Kỳ Cognacq phải triệu tập ông đến để ngăn chặn ảnh hưởng. Ban đầu ông được hứa hẹn bổ nhiệm vào chức vụ cao, nhưng vì không lung lay được lập trường của ông, chính quyền ra lệnh cấm Nguyễn An Ninh diễn thuyết và tụ họp ở nơi công cộng.

tieu-su-nguyen-an-ninh-1

Bác Hồ thăm trại nhi đồng miền Nam – nơi bà Trương Thị Sáu, vợ chí sĩ Nguyễn An Ninh, làm giám đốc. (Nguồn: Sưu tầm)

Tác phẩm của Nguyễn An Ninh

Nguyễn An Ninh không chỉ là một nhà cách mạng kiên cường mà còn là một trí thức uyên bác với nhiều tác phẩm để đời. Trong đó, nổi bật là "Nước Pháp ở Đông Dương" (1925) – tác phẩm viết bằng tiếng Pháp nhằm lên án mạnh mẽ chủ nghĩa thực dân, đòi hỏi các quyền tự do dân chủ cơ bản cho người Việt. Ông cũng là người đầu tiên giới thiệu tư tưởng dân quyền hiện đại qua bản dịch "Dân ước" từ tác phẩm Khế ước Xã hội của Rousseau (1923) với thông điệp sâu sắc: “Người ta sinh ra tự do. Nhà nước là một tổ chức cai trị theo 'khế ước xã hội', vì thế nó phải phục tùng ý chí của toàn dân.” Bên cạnh đó, các tác phẩm như "Hai Bà Trưng" (1928), "Tôn giáo" (1932) và "Phê bình Phật giáo" (1937) cũng thể hiện rõ tư tưởng khai phóng và khát vọng cải cách xã hội của ông.

> Mời bạn đọc thêm Nguyễn An Ninh tác phẩm tại Thư viện số Nguyễn An Ninh - Chuyên đề Nam Bộ.

Nguyễn An Ninh là một trong những biểu tượng sáng ngời của trí tuệ, lòng yêu nước và tinh thần cách mạng đầu thế kỷ XX. Cuộc đời ông là hành trình không ngừng nghỉ vì lý tưởng tự do – dân chủ – khai sáng dân trí cho dân tộc Việt Nam. Từ những trang báo "La Cloche Fêlée", những bài diễn thuyết lay động lòng người, cho đến những năm tháng tù đày nơi Côn Đảo khắc nghiệt, ông luôn giữ vững niềm tin vào tương lai độc lập và tiến bộ của dân tộc. Nguyễn An Ninh ra đi khi mới 43 tuổi, nhưng tư tưởng và di sản của ông vẫn sống mãi như một ngọn đuốc soi đường cho các thế hệ người Việt yêu nước sau này.

Tin liên quan

Trần Văn Giàu - Vị giáo sư "đỏ" của nền sử học Việt Nam

“Hỡi quốc dân! Hỡi tất cả đồng bào tận tâm cứu quốc! Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã trở thành một nước độc lập. Việt Nam từ một đế chế đã trở thành một nước Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam đương tiến bước trên đường sống, sống danh dự với hoàn cầu.”
Xem chi tiết

Bác Ba Phi – Hiện thân của cá tính Nam Bộ

Trong lịch sử văn hóa Nam Bộ, bác Ba Phi hiện lên như một biểu tượng đặc sắc, một hình ảnh tiêu biểu cho tính cách của người dân vùng đất phương Nam. Không chỉ là nhân vật tiếu lâm, bác còn là người sống trọn vẹn với phẩm chất đặc trưng của con người miền Tây Nam Bộ – nơi sông nước, đồng ruộng mênh mông đã ươm mầm cho những tính cách đầy bản sắc.
Xem chi tiết

Lương Định Của - Nhà nông học nổi tiếng thế kỷ 20

Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên không ai là không biết đến Lương Định Của, người con ưu tú của mảnh đất Đại Ngãi, huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng. Ông được biết đến là một Nhà nông học nổi tiếng và là người đi đầu trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Xem chi tiết

Ung Văn Khiêm - Người gieo mầm cách mạng vô sản

Là một trong những người tham gia “gieo mầm cách mạng vô sản” ở Việt Nam từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, Bộ trưởng Ung Văn Khiêm thuộc lớp người “khai sơn phá thạch” cho con đường cách mạng đầy gai góc của dân tộc Việt Nam. Trở thành học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã có những đóng góp trong việc phát triển phong trào vô sản ở Việt Nam cũng như trong hoạt động ngoại giao của chính quyền cách mạng sau năm 1945.
Xem chi tiết